Đôi điều về quan niệm văn học của Cao Bá Quát
tình”, trong truyện Hoa Tiên “chữ tình được thể hiện sâu sắc, đến như tan hợp, buồn vui, vị trí cảnh ngộ thực éo le kì lạ, lời nói thì bi tráng, văn viết thì trầm hùng, những cái đó khác nào như bụi bặm, cám bã mà đem hun đúc thành gạch ngói, giúp đỡ các tác giả, khiến cho sau này truyện Kim Vân Kiều có thể xuất hiện”(3). Ở đây không thể không đánh giá cao quan điểm tiến bộ và quan điểm lịch sử của Cao Bá Quát.
Điểm nổi bật nhất là Cao Bá Quát phê bình thơ đương thời thiếu cá tính sáng tạo, ý thức tự chủ còn thấp. Trong bài Tựa viết cho tập thơ của Miên Thẩm, ông viết: “Tôi nghĩ, thơ thật khó nói. Quốc công cũng biết rồi. Hiện nay cái học khoa cử in sâu vào người ta đã mấy trăm năm, tiếng vang của phong nhã hầu như đã tắt hẳn. Quốc triều ta trị giáo sáng sủa, các tác gia lại nối gót mà ra đời. Nhưng vì cái thói uỷ mị, yếu ớt còn rơi rớt lại, ít có người tự thoát ra được: người kém thì khổ vì nỗi làm theo mẫu, dễ dãi; người có hào khí thì mắc vào bệnh nuốt sống, bắt tươi. Có những người sức học gọi là dồi dào, hí hửng tự đắc, thì chỉ muốn vơ vét trăm nhà, thâu tóm mọi thể, thành ra mô phỏng quá nhiều mà phong cốt chưa cao, tô điểm có khéo, nhưng tinh thần còn thấp”(4).
Trong bài thơ Văn tất kỉ xuất (Văn phải tự mình làm ra), ông càng phê bình gay gắt hơn khuyết điểm ấy và khẳng định mạnh mẽ tinh thần tự sáng tạo. Bài thơ viết: Đâu cần tài chạm khắc - Làm văn tế cá sông - Tu từ lòng thành thật - Màu sắc phải siêu quần - Đạo văn là cặn bả - Ý mới trong điển phần - Lời cũ diệt như cỏ - Tứ lạ vút từng không - Theo mẫu tự bôi bẩn - Tiền cũ chẳng ai cần - Lời thật nên tác giả - Ngòi bút quét nghìn quân - Tự đắc khác đồng đắc - Lời viết theo người khác - Chỉ đáng cúng quỷ thần - Dám gửi trọn ước mong(5).
Ông đả kích mạnh mẽ: kẻ đạo văn chỉ là loại cặn bả; kẻ làm theo mẫu chỉ là tự bôi bẩn mình, văn ấy như đồng tiền cũ không ai dùng; lời cũ phải dẫy bỏ đi như cỏ, không đáng tiếc, có thế cái mới lạ mới có dịp được khẳng định; nói theo người khác răm rắp thì chỉ dùng làm đồ cúng. Chẳng phải lời cúng thì muôn người gần như nói giống nhau đó sao? Trong thời trung đại ý thức tác giả chưa cao, làm văn thơ thường hay vay mượn, sao chép, có ý tưởng như Cao Bá Quát thật là một tư tưởng mới mẻ, hiếm có, và cũng chưa có ai lên án tệ sao chép, dạo văn, ít sáng tạo mạnh mẽ như Cao Bá Quát.
Ông chủ trương làm văn lòng phải thành thật, nảy sinh tự lòng mình. Tư tưởng này mới nhìn thì không mới, bởi từ xưa trong Kinh Dịch trong quẻ càn đã có câu: “Tu từ lập kì thành”. Nghĩa là lựa chọn từ ngữ biểu cảm phải đứng vững trên sự chân thành, lòng thành thực của người viết. Nhưng Cao Bá Quát đề ra yêu cầu cao hơn: Màu sắc phải siêu quần, tứ lạ vút tầng không. Cái “thành” đó phải dựa vào “tự đắc”có tính cá nhân, phân biệt với “đồng đắc”có tính chất tập thể (tức “cộng cảm”), có nghĩa là mỗi người phải có cái riêng (tức “độc cảm”) không lặp lại với người khác. Tất nhiên tự đắc không loại trừ “đồng đắc”, mà có liện hệ nội tại. Chúng ta bây giờ một thời gian dài hầu như chỉ nhấn mạnh tới “đồng đắc”, vẫn lấy quần chúng làm chuẩn, trong khi Cao Bá Quát chủ trương “siêu quần”, vượt lên đám đông bình quân chủ nghĩa. Ông lại chủ trương nói thật (chân) mới làm nên tác giả, có lẽ cái thật trong văn học là phát hiện riêng, “tự đắc” của mỗi người, không phải là cái thật chung chung, cái “đồng đắc”.
Quan niệm văn phải tự mình nhà văn mà ra mới nhìn có nét tương đồng với quan niệm “văn như kì nhân” trong lí luận văn học cổ điển Trung Quốc hay “phong cách ấy là con người” của Buffon thế kỉ XVII nhưng xét ra Cao Bá Quát nói về tính độc sáng trong sáng tác. Văn như kì nhân nhấn mạnh đến văn của người ở lầu son gác tía thì khác với văn của người ở lều tranh cửa sài, văn của người chí ở miếu đường thì khác văn của người chí ở nơi điền dã. Phong cách ấy là con người thì khẳng định văn phong gắn với cách tư duy của mỗi người: người tư duy mạch lạc thì văn sáng sủa, người tư duy rối rắm thì văn tù mù. Còn vấn đề của Cao Bá Quát là văn phải tự mình viết ra, không