Tinh thần phục hưng trong thơ hồ xuân hương
hành vi xác thịt-vật chất như ăn uống, bài tiết, giao hợp, chửa đẻ, v.v… Nói tục, thề tục, nói ngoa… − là những biểu hiện của việc muốn vi phạm các phép tắc nói năng chính thống. Hiệu quả của việc sử dụng bảng từ vựng "tục tĩu" là suồng sã hóa cả đối tượng được nói tới lẫn người tiếp chuyện, tạo ra không khí giao tiếp thân mật xuề xòa, kéo kẻ (hoặc điều) được nói tới thấp xuống và xích lại gần mình, ngang hàng với mình. Những loại hình ngôn ngữ này có từ xa xưa và khó mà nói rằng nó lại ra đời trong "tư thất": nó nhất định phải gắn với các hình thức giao tiếp công cộng, không phải các hình thức giai tiếp quan phương trang nghiêm mà là các hình thức lễ hội dân gian, trong đám hội, giữa đường giữa bãi.
Khái quát những hiện tượng sinh hoạt ngôn ngữ kiểu này và gắn chúng với sinh hoạt lễ hội dân gian cổ đại và trung đại của mọi dân tộc, đặc biệt là những hội cải trang (carnaval), nhà nghiên cứu M.M. Bakhtin (4) coi đây là những thể loại đặc thù của ngôn ngữ suồng xã-quảng trường (chữ quảng trường tạm dịch ở đây nên hiểu như không gian sinh hoạt rộng: bến bãi, phố xá, chợ búa, v.v…). Được dùng vào sinh hoạt lễ hội dân gian, các lời nguyền rủa mất đi chức năng ma thuật-thần chú, các lời nói tục, nói ngoa cũng không còn đơn giản chỉ là biểu hiện vi phạm các phép tắc nói năng chính thống nữa, chúng trở thành hình thức và phương tiện cho những trò đùa nghịch, những cách nói năng mập mờ theo lôgic "lộn trái, đảo ngược" thấm nhuần một tinh thần "tương đối hóa" vui nhộn.
Có thể nói, cả các lối nói lái, nói lỡm "đố tục giảng thanh" v.v… của văn hóa dân gian người Việt lẫn lối ám chỉ ở thơ Hồ Xuân Hương đều có một "ngữ pháp" chung là "dịch" tất cả mọi thứ sang ý nghĩa tính dục, ý nghĩa vật chất, xác thịt. (Điều này cũng phần nhiều tương đồng với các lối nói đùa nghịch thịnh hành trong dân gian và cả trong các trường dòng của châu Âu Cơ-đốc giáo trung đại).(5) Đây chủ yếu không phải là một phương thức thỏa mãn cơ năng (giải thoát ham muốn xác thịt hoặc làm thư giãn cơ thể mệt mỏi vì lao động). Đằng sau thao tác "ngữ pháp" nghịch ngợm này là nguyên tắc "hạ bệ", "giải thiêng" rất đặc trưng cho tinh thần phục hưng. Tất cả những gì là trên, là cao (tinh thần, lý tưởng, trừu tượng) đều bị chuyển vị sang bình diện vật chất-xác thịt, được coi như là thấp, là dưới. Áp dụng vào thân thể, đó là sự đối lập giữa mặt (đầu) với các phần thân dưới (cơ quan sinh dục, bụng, đít).
Ta thấy rất rõ cách đối lập này ở Hồ Xuân Hương. Bà dịch các hình ảnh người (nhà sư, giới tu hành), các hình ảnh thiên nhiên (hang động, núi non, trăng, giao thừa), đồ vật (cái quạt, con ốc, quả mít, khung dệt, bánh trôi…) ra các hình ảnh "cái ấy", "chuyện ấy". Ý nghĩa "hạ bệ-giải thiêng" đối với uy tín tinh thần của giới tu hành thì khá dễ hiểu. Nhưng còn đối với các đồ vật, cảnh vật? Có lẽ ở đây, ý nghĩa này được áp dụng cho những ý đồ linh thiêng hóa hoặc thi vị hóa phong cảnh, tức là "hạ bệ-giải thiêng" cho một loại ý niệm trừu tượng lý tưởng về phong cảnh hơn là cho bản thân phong cảnh. Cần phải nói rằng ý nghĩa "hạ bệ-giải thiêng" ở đây rất xa lạ với tinh thần phê phán phủ định thuần túy. Hồ Xuân Hương không "hạ bệ" theo lối xóa sổ, xóa sạch đối với bất cứ cái gì; bà chỉ − bằng tiếng cười − kéo tất cả về cõi tục, về đời sống tự nhiên thông thường mà biểu hiện là đời sống tính dục. Tinh thần này rất gần gũi với điều mà Bakhtin goi là "tiếng cười lưỡng trị" (ambivalent) vừa chôn vùi vừa tái sinh của văn học phục hưng. Yếu tố vật dục-xác thịt ở Hồ Xuân Hương là phương tiện gây cười hơn là phương tiện gợi dục, nó mang tính phổ quát chứ chưa gắn với phương diện cá nhân ích kỷ của con người tư sản sẽ xuất hiện về sau, nó đối lập với tinh thần khắc dục, đối lập với tinh thần sùng phục các quy phạm chính thống vốn thấm đẫm tính giáo điều và sự trang nghiêm phiến diện hẹp hòi. Đây là một phương diện nữa của tinh thần phục hưng ở sáng tác Hồ Xuân Hương. Bà đã đưa vào văn học cả một vỉa ngôn ngữ trào lộng suồng sã dân gian, tạo ra một phương hướng đối trọng với cái phương