sâu sắc.
2.Ðến một lý tưởng xã hội:
-Lục Vân Tiên là cả một xã hội, tất nhiên là xã hội phong kiến với đầy đủ các hạng người: Vua quan, thứ dân, đứa ở, kẻ sĩ… Một xã hội với đầy đủ những người tốt, kẻ xấu. Nguyễn Ðình Chiểu đã dựng ra cả một cuộc đời để gửi gấm lý tưởng xã hội của mình.
-Nhà thơ đã xây dựng những mẫu người lý tưởng, qua những nhân vật lý tưởng, ông muốn xây dựng một xã hội lý tưởng. Ở đó, cái tốt đẹp được coi trọng và ngưỡng mộ, người tài đức được trọng dụng, các oan khuất được giải minh. Tóm lại, đó là xứ sở của điều thiện, lẽ sống công bằng và lòng nhân ái.
-Bên cạnh đó, nhà thơ phê phán những bất nhân, bất nghĩa. Qua diễn tiến và kết cục của số phận nhân vật phản diện trong tác phẩm, Nguyễn Ðình Chiểu muốn nói lên rằng muốn xây dựng một xã hội lý tưởng phải tiêu diệt những hạng người xấu xa, độc ác.
Cách xử lý này tuy có phần ảo tưởng và thỏa hiệp nhưng có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó thể hiện sự cao thượng và càng làm cho tính cách của nhân vật chính diện càng lý tưởng hơn, thể hiện được tư tưởng lạc quan của nhân dân: Cái ác, cái xấu dẫu được người tha, thì vẫn là Trời không dung, đất không tha.
-Tác phẩm có xây dựng các yếu tố thần kỳ: Giao long, phật bà, du thần, hai đạo bùa… Các yếu tố thần kỳ này đã được sự tiếp tay, tiếp sức cho chính nghĩa, thể hiện khát khao công lý và nhân ái của nhân dân.
1.4.Vài đặc điểm về nghệ thuật:
a. Kết cấu:
Kết cấu không khác mấy so với truyện thơ Nôm giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ XIX, là vẫn xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập nhau nhưng trong Lục Vân Tiên sự đối lập được thể hiện trong từng cặp nhân vật một: Hớn Minh >< Trịnh Hâm; Tử Trực >< Bùi Kiệm; Kiều Nguyệt Nga >< Võ Thể Loan> xây dựng kiểu kết cấu này giúp tác giả trực tiếp bày tỏ quan điểm của mình.
b. Sự chuyển ý:
Lục Vân Tiên là một tác phẩm được sáng tác để kể hơn là để xem nên cách chuyển ý rất đơn giản và thoải mái. Từng chương, mục trong tác phẩm không đòi hỏi sự liền mạch và nhất quán vì ở mỗi chương, mục là một nội dung, là một câu chuyện riêng. Ta vẫn có có thể đọc từng hồi, từng thứ, từng đoạn nhưng vẫn hiểu mục đích và nội dung của tác phẩm. Chẳng hạn như đoạn thương ghét của ông Quán, sự triết lý của ông Quán, ông Ngư, ông Tiều về sự đời, hay những đoạn chế giễu sự khoác lác, bịp bợm của bọn lang băm, thầy bói, thầy pháp… đều gây ấn tượng mạnh mẽ:
Pháp rằng: án đã cao tay
Lại thêm phù chú xưa nay ai bì
Qua sông cá thấy xếp vi
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lại thưa
…
Cuối cùng cũng lộ rõ mục đích thực dụng của chúng:
Có ba lạng bạc trao sang
Thì Thầy sắm sửa lập đàn chạy cho.
c. Ngôn ngữ:
Tác phẩm này được sáng tác trong hoàn cảnh mù lòa nên nhiều chỗ còn thô vụng. Tuy nhiên ngôn ngữ trong Lục Vân Tiên phục vụ đắc lực cho việc kể. Phần nhiều là những lời thơ nôm na, mộc mạc, chất phác, dễ nhớ, dễ truyền miệng trong dân gian.
d. Sử dụng thành ngữ, ca dao:
Thành ngữ, ca dao đã tham gia hình thành Lục Vân Tiên khá độc đáo. Thí dụ như đoạn đối đáp của ông quán với Trịnh Hâm…
e. Ðiển cố:
Ðiển cố được lấy từ tích các truyện Tàu, là những điển tích quen thuộc với nhân dân. Ví dụ như đoạn Tử Trực mắng cha con Võ Thể Loan; đoạn thương ghét của ông Quán…
f.Xây dựng tính cách nhân vật:
Trong tác phẩm Lục Vân Tiên có đoạn nhà thơ đặt chân vào hoàn cảnh có kịch tính, có nhiều chỗ nhân vật cần bộc lộ tâm trạng nhưng nhà thơ chưa thể hiện hết tâm trạng đó. Vì vậy, tâm lý nhân vật còn nhiều khô khan, gò bó, gượng gạo. Ðoạn Lục Vân Tiên cứu Nguyệt Nga, đoạn sum họp.
Lục Vân Tiên là tác phẩm cuối cùng kết thúc một giai đoạn văn học. Tác phẩm đã kế thừa nhiều mặt truyền thống củ văn học nhân gian, của truyện thơ Nôm bình dân, đã thể hiện trữ tình đạo đức và tính nhân dân sâu sắc.