Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du
Xích phấn nhược, Mạnh xuân Trâu nguyệt, Vọng nhật, Cổ Ngô Mặc lãng tử đề”. Ngày rằm tháng Giêng năm Quý Sửu niên hiệu Khang Hi là năm 1673. Tại trang này có hai dấu triện vuông. Dấu trên khắc ba chữ: “Mặc lãng tử”; dấu dưới bốn chữ: “Tây Hồ đắc nhân”.
b - Cấu trúc của sách: Sách gồm 2 phần.
* Phần đầu : một quyển với tên gọi Quyển đầu, có:
+ Bài Tựa của Cổ Ngô Mặc lãng tử;
+ Mục lục về 10 cảnh đẹp Tây Hồ là:
Buổi sớm trên đê Tô Thức, Hương sen ở Khúc Viện, Nghe tiếng chim oanh hót ở Liễu Lãng, Xem đánh cá ở Hoa Cảng, Tiếng chuông buổi sáng ở Nam Bình, Sắc thu ở Bình Hồ, Lưỡng Phong cao chạm mây, Trăng in bóng ở Tam Đàm, Chiều tà chiếu tháp Lôi Phong, Tuyết cuối mùa ở Đoạn Kiều.
+ Tranh vẽ và thơ: 2 bức Tây Hồ toàn đồ và 10 bức tranh ứng với 10 mục kể trên.
Bên mỗi bức Tây Hồ giai cảnh đều có một bài thơ, soạn giả ghi rõ, ai vẽ, đề thơ của ai.
* Phần hai: 16 quyển viết về danh nhân Trung Hoa là: Cát Hồng, Bạch Lạc Thiên, Tô Thức, Lạc Tân Vương, Lâm Hòa Tĩnh, Tô Tiểu Tiểu, Nhạc Phi và Tần Cối, Vu Khiêm, Lâm Đạo Tế, Biện Tài, Văn Thế Cao, Tiền Lưu, Viên Trạch và Lí Nguyên, Phùng Tiểu Thanh, Bạch Xà nương và Hứa Xương, pháp sư Liên Trì.
Trong bài Tựa, chúng tôi đặc biệt chú ý tới đoạn kết. Cổ Ngô Mặc lãng tử khẳng định: “Ngày nay và mai sau, có ai hâm mộ hồ Tây Tử mà không được tận mắt nhìn, thì mở bức họa đồ này ra, xem qua một lượt là dường như có thể như đang ngoạ du trên hồ Tây Tử vậy”. Thế thì, nếu Nguyễn Du đã đọc Tây Hồ giai thoại, đã mở xem 12 bức vẽ về Tây Hồ trong sách, có lẽ ông chẳng cần đến tận Tây Tử mới biết “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”! Hơn nữa, đa phần các thiên trong Tây Hồ giai thoại thường được kết cấu theo kiểu: Mở đầu bằng cảnh Tây Hồ tươi đẹp tràn đầy sức sống và hấp dẫn con người, nhưng khép lại bằng cảnh nhân vật chết, hoặc chết bi phẫn như Nhạc Phi, hoặc chết uất hận như Tiểu Thanh, Tô Tiểu Tiểu…; hoặc sau khi nhân vật chết rồi, chỉ còn lại di tích một ngôi mộ hoang, một ngôi nhà quạnh vắng thê lương, một khu vườn trống… như các thiên Cát Lĩnh tiên tích, Bạch Đê chính tích, Linh ẩn thi tích, Tây Lãnh vận tích, Nhạc phần trung tích… Và, chữ khư [?] đâu chỉ có một nghĩa là “gò hoang”? Khư ít nhất 7 nghĩa, trong đó có nghĩa là “nền hoang”, “hoang phế”... Cho nên, ta có thể hiểu “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư” như các dịch giả của cả ba công trình Thơ chữ Hán Nguyễn Du: “vườn hoa bên hồ Tây đã thành bãi hoang rồi” (trang 96 bản Bùi Kỉ…, năm 1959; trang 162 bản Lê Thước, năm 1965; trang 173 bản Đào Duy Anh năm 1978). Ngoài ra, thiên số 7 trong Tây Hồ giai thoại: Nhạc phần trung tích viết về Nhạc Phi và Tần Cối còn giúp thêm tư liệu khẳng định thời điểm ra đời bài Độc Tiểu Thanh kí. GS. Nguyễn Đình Chú rất tinh tế khi nhận xét: “Nhạc Vũ Mục mộ là viết về mộ của Nhạc Phi ở Hàng Châu (thuộc tỉnh Chiết Giang) thì xem ra lại không đến mà viết”(18). Đúng vậy! Tây Hồ giai thoại đã chứng thực điều đó.
Vậy là, về cơ bản, ta đã giải quyết xong câu đầu Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư và 2 câu kết Bất tri tam bách dư niên hậu - Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
II/ Cổ kim hận sự… Phong vận kì oan…
“Hận sự” ở đây là gì? Tiểu Thanh bị oan tới mức nào khiến Nguyễn Du gọi là “kì oan”? “Phong vận kì oan…” đi liền với “cổ kim hận sự…” thành một cặp, không thể tách rời. Tình sử, Ngu Sơ(19) tân chí và kể cả Nữ Liêu trai chí dị chưa phản ánh được cái gọi là “hận sự” và “kì oan” của Tiểu Thanh. Nhưng thiên 14 Di tích về nỗi hận ở gò mai trong Tây Hồ giai thoại đã chỉ rõ điều này.
Sau khi kể xong cuộc đời Phùng Tiểu Thanh, Cổ Ngô Mặc lãng tử kết luận: “Kẻ có lòng liên tài, phần lớn coi việc Tiểu Thanh buồn uất mà chết là nỗi hận. Ta thì không nghĩ vậy. Giá như Phùng sinh không sợ tên đố phụ kia và vợ Phùng sinh không đố kị Tiểu Thanh, thì chẳng qua Tiểu Thanh chỉ là kẻ thê thiếp tham ân trộm ái, nhận sự sủng phúc tầm thường, dù tên tuổi có mĩ miều thì trong khoảnh khắc cũng tan biến, sao có thể trăm năm sau vẫn khiến văn nhân tài sĩ, mỗi khi qua ngôi nhà riêng ở Cô Sơn, điếu tưởng ánh tịch