Phân tích Chiếu cầu hiền
thời Lê Trịnh như vậy? Bởi vì ông đã nhìn họ trong mối quan hệ với hoàn cảnh sống (hoàn cảnh rộng-lịch sử xã hội). Chỉ những nhân tài kiệt xuất như Quang Trung Nguyễn Huệ… mới có khả năng tạo ra thời thế, còn như phần lớn con người đều ít nhiều bị chi phối bởi hoàn cảnh lớn của xã hội. Cách ứng xử của các bậc hiền tài trước đây như vậy cũng có nghĩa là họ đã làm chủ được hoàn cảnh hẹp (hoàn cảnh trực tiếp) của bản thân mình. Tóm lại, bài học mà chúng ta học được ở đây chính là cách đánh giá con người, phải nhìn nhận họ trong mối quan hệ qua lại với hoàn cảnh sống để có thái độ đúng mực.
Ở đoạn văn thứ ba, tác giả thay lời vua để thổ lộ những tâm tư sâu kín, đó là nỗi niềm canh cánh chờ mong sự xuất hiện của hiền tài (“ghé chiếu lắng nghe”, “ ngày đêm mong mỏi”). Hơn thế nữa, hai câu hỏi tu từ liên tiếp: “Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”-cho thấy sự day dứt, trăn trở khôn nguôi trong lòng vua Quang Trung lúc bấy giờ. Giọng văn bình dị như một lời tâm tình làm gần hơn khoảng cách giữa vua với các hiền tài-“nguyên khí quốc gia”(Thân Nhân Trung). Qua đó, ta thấy rõ ràng một điều rằng vua Quang Trung là người rất coi trọng hiền tài. Như vậy người hiền tài sẽ không lo sợ bị che lấp tài năng hoặc tài năng bị quên lãng, bỏ rơi như thời buổi suy vi. Lập luận như thế là đã rất chặt chẽ và thuyết phục. Nhưng tác giả còn tăng mức độ thuyết phục cao hơn ở đoạn văn tiếp theo.
Đoạn bốn là những cơ hội của người hiền (thời cơ của người hiền thực sự đã đến) đó là:
-Đất nước vừa đại định, công việc mới mở ra, còn nhiều việc phải lo toan, khắc phục.
-Dân còn mệt nhọc, giáo hóa vua chưa thấm nhuần khắp nơi. Trọng trách quốc gia không chỉ mình vua gánh vác được.
Tất cả đều là những mảnh đất trống cho người hiền thể hiện tài năng của mình. Cơ hội đã đến. Tác giả không hô hào, kêu gọi mà đặt ra một câu hỏi day dứt: “Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò vua giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?” Như vậy, một mặt tác giả chỉ cho người hiền thấy được thời cơ, vận hội mới, qua đó đề cao vai trò của họ trong việc trị nước; mặt khác lại đánh vào tâm lý, khơi gợi lòng tự trọng của họ. Lời văn nhẹ nhàng mà lí lẽ, lập luận thì sắc sảo, có sức thuyết phục cao-vừa lay động chí, vừa chuyển tâm ý của người hiền tài.
Đoạn năm là bước chuyển ý quan trọng, tăng cấp tối đa sự thuyết phục bằng một chính sách cầu hiền đặc biệt:
-Ai có tài cho phép tự trình bày công việc;
-Cho phép các quan tự tiến cử;
-Người hiền tự tiến cử mình.
Chính sách cụ thể, rõ ràng, công bằng, dân chủ - mở rộng cửa cho người hiền tài vào cung giúp vua, giúp nước.
Có thể nói rằng trong phần hai này, nghệ thuật thuyết phục của Ngô Thì Nhậm không chỉ độc đáo mà còn rất tài năng. Lời lẽ thiết tha, lí lẽ sắc sảo, lập luận chặt chẽ. Hòa quyện trong mỗi lời văn là tình và lí: một bên là sự cần thiết của nước nhà, một bên là tấm lòng ưu ái canh cánh của nhà vua dành cho các bậc hiền tài. Bài học mà chúng ta có được ở đây có lẽ là bài học về cách ứng xử ở đời: lấy chí để thuyết phục chí, lấy tâm để thuyết phục tâm, lấy sự công bằng, dân chủ để thuyết phục nhân. Đó là nghệ thuật cầu hiền của Ngô Thì Nhậm và vua Quang Trung, nhưng cũng là nghệ thuật ứng xử của con người trong mọi thời đại.
3. Phần ba (đoạn 6 )
Phần kết của văn bản tác giả nhấn mạnh lại thời cơ, vận hội của người hiền. nó có giá trị như một lời nhắc nhở với những hiền tài rằng cơ hợi lập danh, lập thân của họ thực sự đã đến, họ cần phải chứng tỏ chí nam nhi của mình trước lịch sử. Lời kêu gọi cuối cùng sôi nổi, nhiệt thành khuyến khích tinh thần của người hiền một cách sâu sắc.
Quay trở lại với hoàn cảnh và mục đích ra đời của văn bản Chiếu cầu hiền, ta thấy rõ một điều: nếu tác giả viết không khéo, nói không thông thì hoặc sẽ phản tác dụng, hoặc bản thân bị chê cười. Vì sao vậy ? Các trí thức Bắc Hà cũng như những trí thức của các triều