Tìm hiểu bài Thu hứng của Đỗ Phủ
I . Tìm hiểu chung
1. "Giáo sư Phan Ngọc đã viết một công trình trên một nghìn trang sách với nhan đề "Đỗ Phủ nhà thơ dân đen" :
"Đỗ Phủ (712-770) là nhà thơ hiện thực lớn nhất đời Đường, được ngợi ca là "Thi thánh" để lại khoảng 1400 bài thơ mang phong cách nghệ thuật độc đáo.
Thi hào dân tộc Nguyễn Du rất ngưỡng mộ Đỗ Phủ:
"Thiên cổ văn chương, thiên cổ sư
Bình sinh bội phục vị thường li"
(Mộ Đỗ Thiếu Lăng ở Lỗi Dương)
Câu thơ trên nghĩa là: Văn chương lưu truyền muôn đời, là bậc thầy muôn đời. Bình sinh ta khâm phục, chưa từng xa rời ông.
Qua đó ta thấy Đỗ Phủ vô cùng vĩ đại.
2. Thơ Đường cũng như thơ Đỗ Phủ nói về đề tài mùa thu vừa nhiều vừa hay. Bài thơ "Thu hứng" này nằm trong chùm thơ 8 bài. Bản dịch của Nguyễn Công Trứ đã được lưu truyền gần hai thế kỷ nay, được xem là một bản dịch xuất sắc.
3. Bố cục bài thơ
- 4 câu đầu: Cảnh thu.
- 4 câu sau: Tình thu (nỗi lòng nhà thơ).
4. Chủ thể : Nỗi lòng của thi nhân - kẻ tha hương trước cảnh sắc trời thu.
II. Phân tích
1. Cảnh thu
"Ngọc lộ" móc ngọc, hình ảnh ẩn dụ nói về hạt móc long lanh như hạt ngọc. "Ngọc lộ" đã làm héo hon, điêu tàn cả một rừng phong bao la. Hình ảnh rừng phong gợi lên một vẻ thu, một sắc thu tiêu điều, buồn bã. Rừng phong là một biểu tượng của mùa thu phương Bắc, là một thi liệu được nói đến nhiều trong thơ cổ, tuy mang tính ước lệ, nhưng rất gợi cảm thi vị:
"Mãn mục giai tình sắc"
(Tương âm dạ)
(Đâu đâu mắt cũng thấy sắc thu)
- " Thu mãn phong lâm sương diệp hồng"
(Nhiếp khẩu đạo trung)
(Giữa thu sương xuống trên rùng phong là đỏ)
- Rừng thu từng biếc chen hồng"
(Câu 1520- Truyện Kiều)
Núi Vu, kẽm Vu ở Quỳ Châu mịt mờ khí thu (khí tiêu sâm). Cũng là một nét thu hiu hắt buồn.
Hai câu đầu, hình ảnh ẩn dụ và nhân hoá với 2 cặp từ gợi tả (điêu thương, tiêu sâm). Đỗ Phủ đã làm hiện lên một không gian núi rừng mang một màu sắc buồn thương tàn tạ, hiu hắt. nguyễn Công Trứ đã thay vu Sơn, Vu Giáp bằng 2 chữ "ngàn non" cũng là một sự sáng tạo:
"Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu loà"
"Kẽm" là khoảng không gian giữa 2 vách núi kề nhau. "Từ điển phổ thông tiếng Việt Văn Tân chủ biên giải thích: "Kẽm là khe núi có sườn dốc đi được". Sách văn 10 giáo viên có gợi ý: "Câu thứ 3 tả riêng cảnh kẽm Vu, và câu thứ tư tả riêng cảnh núi vu. Căn cứ vào chữ "kẽm" như đã trình bày, chúng tôi không nghĩ phần "thực" bài thơ "Thu hứng" này là như thế.
- Câu 3, 4 vẽ tiếp cảnh thu bằng hai hình ảnh vừa dữ dội vừa hoành tráng: Trên dòng sông thu, những đợt sóng cuồn cuộn vọt lên, vỗ lên tận lưng trời. Khắp cửa ải, mây từng lớp từng lớp đùn lên, sa sầm giáp mặt đất. Hình tượng thơ kỳ vĩ, sóng và mây đối nhau, cái hướng về trời cao, cái sa xuống đất để lại nhiều ấn tượng mạnh mẽ. Một bức tranh thu nói về dòng sông và con sóng, về cửa ải và mây, mang tầm vóc vũ trụ, hoành tráng.
"Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thương phong vân tiếp địa âm"
(Lưng trời sóng rợn, lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải ra).
Hai câu thơ này đã thể hiện sâu sắc những nét cơ bản trong phong cách thơ Đỗ Phủ ở giai đoạn cuối đời: "trầm uất và bi tráng".
Tóm lại, phần đầu bài thơ, cảnh thu từ rừng phong đến Vu Sơn, Vu Giáp, từ dòng sông sóng vỗ, đến cửa ải mây đùn - tất cả đã gợi lên nỗi niềm, bao cảm xúc đối với kẻ tha hương.
2. Nỗi lòng thi nhân
Như ta đã biết, năm 759, Đỗ Phủ từ đời quan, dời nhà đến Tân Châu. Ông phải trải qua 7 năm trời lưu lạc (759-766). Chùm "Thu hứng" 8 bài được viết vào mùa thu năm 766, tại Quỳ Châu. Ngày thu đến, đối cảnh sinh tình, vừa thương đời, vừa thương vợ con, thương mình gian truân, chìm nổi.
Phần 2 bài "Thu hứng" này là nỗi lòng u ẩn của tác giả.
Cúc, dòng lệ, con thuyền lẻ loi (cô chu), vườn cũ, dao thước, tiếng chày đập vải vừa mang tính hiện thực, vừa mang màu sắc ước lệ tượng trưng, rất giàu chất chữ tình. Mùa thu trước, Đỗ Phủ ở Vân An, màu thu này, ông ở Quỳ Châu. Hai mùa thu trôi qua, hai lần nhìn hoa cúc nở, cả hai đều rơi nước mắt: "Tùng cúc