0 dòng thơ mở đầu bài thơ Việt Bắc
những kniệm thiết tha mặn nồng, câu hỏi bao trùm cả không gian của 15 năm ấy. Câu hỏi thường có tác dụng khơi sâu vào lý trí của người nghe nhưng ở đây câu hỏi lại khơi gợi những kniệm đầy xúc động của 15 năm cách mạng đã gắn bó với Việt Bắc để làm nên một VNam dchủ c hoà, bởi THữu đã sử dụng một thứ ngôn ngữ chan chứa cảm xúc. Những chữ "mười lăm năm ấy" gợi ta nhớ tới "cái thuở ban đầu" của tình yêu đã từng được nói tới trong câu thơ của Lưu Trọng Lư:
"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy - Nghìn năm hồ dễ đã ai quên"
Người về làm sao có thể quên được 15 năm ấy của mối tình đầu giữa cách mạng và VBắc. Cùng với sự khơi gợi những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ, những tình cảm "nghìn năm hồ dễ đã ai quên", câu thơ còn được tiếp tục bởi những chữ "thiết tha mặn nồng". Một câu thơ viết về 15 năm của cmạng, của khchiến mà nồng nàn, mà tha thiết và trữ tình biết bao.
Vẫn là một câu hỏi mà người ở lại hướng tới người về xuôi, vẫn là một cách xưng hô hết sức tình tứ "mình" với "ta", nhưng ở 2 dòng thơ tiếp theo lại là câu hỏi bao trùm cả không gian, không gian của cuộc chia tay, không gian của những kniệm qua suốt 15 năm ấy, không gian của cả đất nước, bao trùm cả miền ngược lẫn miền xuôi, không gian của cây với núi, của sông với nguồn. Một câu hỏi làm bâng khuâng cả núi rừng sông núi, cả đất trời trong khung cảnh chia tay. Dường như ở đâu trong cái thời điểm ấy cũng có sự hoà hợp giữa niềm vui và nỗi nhớ, vì sự chia tay giữa "mình" với "ta" là một sự kiện lớn lao trong đời sống của đất nước.
Cái đặc sắc của câu thơ không chỉ thể hiện qua kết cấu của câu hỏi, qua từ ngữ xưng hô tình tứ mà còn qua những hình ảnh như được viết ra từ thể hứng thể phú, thể tỉ trong ca dao. Đọc câu thơ
"Mình về mình có nhớ ta- Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng - Mình về mình có nhớ không - Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"
Ta ngỡ như câu ca dao:
"Qua đình ngả nón trông đình - Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu - Qua cầu ngả nón trông cầu- Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu"
Thơ Tố Hữu viết về những vấn đề chtrị mà vẫn thấm cái hồn của ca dao, dân ca. 4 câu thơ như bài ca dao vậy, chất trữ tình gắn liền với những băn khoăn, trăn trở của người ở lại, của VBắc vô cùng thuỷ chung với cmạng. THữu đã chọn được cách nói để khơi nguồn cho cxúc xuyên suốt "VBắc" hết sức đặc sắc. Mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế mà tuôn chảy dào dạt.
Nằm trong mạch hát đối đáp, bài thơ đã dành đúng 4 dòng thơ diễn tả tâm trạng người về xuôi, tạo nên sự cân đối với 4 dòng thơ mở đầu, tạo nên sự tương xứng của lòng người về xuôi với VBắc, tương xứng với sự thuỷ chung của VBắc. ở 4 dòng thơ này như có sự nhớ thương đáp lại nhớ thương, tha thiết đáp lại với thiết tha, cái bịn rịn không nỡ rời chân đáp lại cái mặn nồng của người ở lại. Nằm trong mạch cảm xúc như của tiếng hát giữa đôi lứa yêu nhau, THữu buông một câu thơ rất tình tứ:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn"
Chỉ một chữ "ai" thôi đủ làm say đắm lòng người. Chữ "ai" đâu phải để hỏi vì muốn biết ai; chữ "ai" đâu cũng còn là đại từ phiếm chỉ để chỉ chung, chỉ một đối tượng không xác định bởi ở đây cả "ta" lẫn "mình" đang lên tiếng hát cho cuộc chia tay đầy lưu luyến này. Chữ "ai" chỉ là một cách nói để làm tăng thêm tcảm yêu thương, để câu nói trở nên tình tứ mà thôi. Người về xuôi trong nỗi niềm xúc động như mở rộng tâm hồn, mở rộng nỗi lòng của mình để đón nhận cái thiết tha của những tình cảm thuỷ chung kia, để rồi bày tỏ tcảm của mình. Đó là trạng thái "bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi". Những chữ "bâng khuâng", "bồn chồn" diễn tả rất chính xác trạng thái tcảm của người về xuôi. Bâng khuâng chính là nỗi niềm thương nhớ đối vơí cảnh, đối với người, đối với cuộc sống đã trở thành kỷ niệm của những ngày kháng chiến, những kniệm còn vương vấn, còn dâng đầy trong tâm trí người về xuôi. Bước chân về xuôi mà lòng dường như vẫn còn vấn vương với VBắc. Còn "bồn chồn" là một từ đã tâm trạng hóa bước đi của người về xuôi, những bước đi không nỡ rời mảnh đất yêu thương qua 15 năm ấy. Mỗi