Tinh thần phục hưng trong thơ hồ xuân hương
đấm", qua những cụm từ đầy ngụ ý "tra hom ngược", "rút nút xuôi"; thậm chí qua những câu thơ rất mực trữ tình "Mảnh tình san sẻ tỉ con con", hay là "Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng / nửa mạn phong ba luống bập bềnh ".
Trong những xúc tiếp suồng sã của người Việt ngày nay, ta vẫn thấy có trò nói lỡm nhau xung quanh những chữ nghĩa, những sự vật có thể gợi lên ý niệm về "cái ấy", "chuyện ấy" − chẳng rõ đây là những nét di truyền từ xa xưa mà ở thời mình Hồ Xuân Hương đã biết sử dụng, hay là cái trò chơi này đã tự bà mà ra? Có phải bà đã luyện cho con mắt người Việt nhìn đâu cũng dễ hình dung ra "chuyện ấy"? Nhìn vào khung cửi thì thấy tư thế "hai chân đạp xuống năng năng nhắc / một suốt đâm ngang thích thích mau"; nhìn lên mái lều thì thấy "xỏ kẽ kèo tre đốt ngẳng ngheo"; nhìn cảnh đèo núi thì thấy "lắt lẻo cành thông cơn gió lốc / đầm đìa lá liễu giọt sương gieo", nhìn cảnh đánh đu ngày xuân thì thấy "trai du gối hạc khom khom cật / gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng" và "hai hàng chân ngọc duỗi song song" (một sự mô tả biểu cảm có thể khiến ta liên tưởng đến các tư thế của ba-lê và trượt băng nghệ thuật hiện đại!), để rồi nghĩ đến ngày vui sẽ hết thì lại hình dung cái cảnh ngụ ý khá thô bạo: "cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không".
Quả là không thể giúp gì được cho những ai vẫn muốn "bênh vực" thơ Hồ Xuân Hương theo lối cố tình giảm nhẹ cái ý ám chỉ chuyện giao hoan trai gái. Bởi cái nghĩa thứ hai, nghĩa ám chỉ "chuyện ấy" nó lộ liễu quá. Đã từng trách ai đó "còn thú vui kia sao chẳng vẽ" thì đến lượt mình, bà đã vẽ, bằng ngôn ngữ, bằng tiếng Việt. Đối với bà, đó là chuyện tự nhiên của "người ta lúc trẻ trung" kia mà! "Ngày xanh sao nỡ tạnh lòng son?", đến như cô bạn trong cảnh lẽ mọn "năm thì mười hoạ hay chăng chớ / một tháng đôi lần có cũng không" đã là thiếu thốn khó mà chịu đựng được mãi, nói chi những tình cảnh trái tự nhiên như của đám quan thị − đành coi "chuyện ấy" không còn có thể là chuyện của mình mà chỉ còn là của người ta − "rúc rích thây cha con chuột nhắt / vo ve mặc mẹ cái ong bầu", − hay là tình cảnh của các vị tu hành "chày kình tiểu để suông không đấm"… Hồ Xuân Hương hoàn toàn "thông cảm" thậm chí đồng cảm với cái "thú vui " − "chồn chân mỏi gối vẫn còn ham", "mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo" − này của "người ta lúc trẻ trung", từ các chị em cùng lứa, người lẽ mọn, kẻ góa bụa, cho đến các bậc vua chúa, hiền nhân quân tử. Bà gọi nó là "thú vui", và ta nên hiểu nó theo tinh thần một triết lý tự nhiên tự phát hơn là gán cho nó cái hàm nghĩa hiện đại của "cách mạng tình dục".
3/Quả là không thể − và đã thế thì chẳng nên − giảm nhẹ hay làm ngơ cho Hồ Xuân Hương về việc đã mô tả − trực tiếp hoặc ám chỉ − bộ phận sinh dục và hoạt động giao hoan nam nữ.
Giải thích điều này bằng cách phỏng đoán về một cuộc đời tình ái không thỏa mãn, về một "căn tính dâm", một thể chất ít nhiều đặc biệt, luôn bị những "cái ấy", "chuyện ấy" ám ảnh, v.v. − ở những mức khác nhau, nhiều lắm cũng chỉ dừng lại ở bình diện tâm lý sáng tác chứ không thể nói được gì về tầm cỡ, ý nghĩa của những sáng tác ấy, càng khó cắt nghĩa sức sống lâu dài và mạnh mẽ của những sáng tác ấy qua suốt nhiều thế hệ công chúng người Việt.
Có vẻ như Hồ Xuân Hương khá lẻ loi so với đương thời trong cái tạm gọi là "xu hướng" sáng tác nêu trên. Nhìn thật chăm chú, gom nhặt thật chắt chiu trong văn học thành văn đương thời thì người ta có thể nêu ra được một câu thơ Nguyễn Du tả nàng Kiều lúc tắm − "dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên" (tính ước lệ của ngôn từ ở đây không xóa được sự đồng cảm giữa tác giả Truyện Kiều với Hồ Xuân Hương trong sự khẳng định đầy hân hoan cái đẹp trần tục, tự nhiên ở cơ thể người đàn bà), một vài câu thơ khơi gợi những ám ảnh xa xôi về chuyện lứa đôi ân ái trong Chinh phụ ngâm, Sơ kính tân trang và nhất là Cung oán ngâm khúc; kiểu như: "cái đêm hôm ấy đêm gì / bóng dương +++g bóng đồ mi trập trùng / chồi thược dược mơ mòng thụy vũ / đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu" (bù lại cái ước lệ và chất "trướng gấm màn là", những câu thơ