Phân tích khổ một bài thơ Tây Tiến.
kính của người nghệ sĩ quay phim, như chơi vơi trong nỗi nhớ của QDũng. "Nỗi nhớ chơi vơi" là một sáng tạo độc đáo của nhà thơ, bởi chơi vơi thường mang ý nghĩa chỉ không gian. Không gian tồn tại của sự vật, đi vào nỗi nhớ của Quang Dũng "chơi vơi" trở thành không gian của tâm tưởng, của cảm xúc. Từ bức tranh toàn cảnh "chơi vơi" một nỗi nhớ này, hoài niệm như ống kính quay phim làm hiện lên những chặng đường đã qua của đoàn binh Tây Tiến với những địa danh, không phải không có sự lựa chọn một cách kỳ công, gợi biết bao cảm giác về sự xa xôi hiểm trở như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu...Những địa danh với người đọc thuở ấy còn đầy bí hiểm, hoang sơ, thậm chí nó từng khiến Vũ Quần Phương cho rằng 2 chữ "Mường Hịch" nghe như bước chân cọp dậm dịch rình người, còn 2 chữ "Mai Châu" tự nó đã ủ sẵn hương thơm của nếp rừng. Mới biết sức gợi tả của các địa danh thôi cũng đã có thể làm lay động trí tưởng tượng của người đọc.
Bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến của QDũng còn vô cùng đặc sắc bởi nó được tạo nên từ một thứ ngôn ngữ rất giàu tính tạo hình. Mô tả thiên nhiên mà ta như thấy những bước chân quả cảm của đoàn binh Tây Tiến đang đạp bằng mọi gian khổ mà thiên nhiên thử thách, mọi hiểm trở mà thiên nhiên đe doạ. Ta không chỉ thấy một Sài Khao sương lấp, một Mường Lát hoa về trong đêm hơi mà còn thấy cả những chặng đường khúc khuỷu, cheo leo
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm - Heo hút cồn mây súng ngửi trời - Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống - Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi "
Đó là hình ảnh trập trùng dốc đứng đèo cao như dựng lên trước mắt đoàn binh Tây Tiến. Những thanh trắc tiếp nối nhau tạo cảm giác về sự gập gềnh khúc khuỷu. Điệp từ "dốc" như mở ra trước mắt người đọc hình ảnh những con dốc tiếp nối nhau lên tới người. Nhịp của câu thơ càng làm tăng thêm nỗi vất vả của người lính bởi nó như tiếng thở hối hả, giục giã, gấp gáp. Đó là nhịp điệu:
Dốc lên / khúc khuỷu / dốc / thăm thẳm
Đó là một nhịp điệu ít thấy trong câu thơ 7 chữ cổ điển: 2/2/1/2. Hơn nữa nhà thơ còn sử dụng liên tiếp những từ láy gợi hình, những từ láy mà tự nó đã có giá trị biểu hiện như "khúc khuỷu", "thăm thẳm", tiếp đó là "heo hút".
Tuy nhiên cần phải thấy thơ QDũng có một đặc điểm rất nổi bật, bao trùm, đó là những hình ảnh tương phản có giá trị nâng đỡ lẫn nhau về mặt cảm xúc. Cho nên những "dốc lên", "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút" đã trở thành vô nghĩa trong sự thử thách của thiên nhiên đối với con người. Vì sau tất cả những thử thách ấy, ta bỗng bắt gặp một cảm xúc đầy kiêu hãnh của người lính. Người lính đã bất chấp mọi thử thách để vươn tới một tầm cao +++g lộng giữa đỉnh trời. QDũng đã tạo nên một hình ảnh hết sức bất ngờ từ sự tương phản này, hình ảnh "súng ngửi trời". Từ hình ảnh ấy, người lính hiện ra rất thực, thực với những người lính xuất thân từ học sinh, sinh viên trí thức HNội. Đó là hình ảnh được hiện ra từ cái nhìn của những người lính trẻ thông minh mà tinh nghịch, những người lính đã vượt qua muôn trùng dốc để vươn tới tận trời, để súng ngửi trời. Không phải là những người lính như người lính trong đoàn binh Tây Tiến khó có thể liên tưởng từ "mũi súng" đến "súng ngửi trời"
Thời đại đã đem đến cho QDũng không chỉ một liên tưởng lạ lùng, kỳ thú mà còn là hình tượng thơ hết sức kỳ vĩ. Khẩu súng cùng với người lính như đang đứng ở đỉnh cao của thời đại gợi ta nhớ tới hình ảnh ngươì chiến sĩ vệ quốc trong câu thơ của Phạm Ngũ Lão:
"Hoành sóc giang san cáp kỉ thu"
Hình tượng người anh hùng vệ quốc cầm ngang ngọn giáo đứng giữa non sông hoặc người lính trong câu thơ của Tố Hữu.
"Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều - Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo - Núi không đè nổi vai vươn tới - Lá nguỵ trang reo với gió đèo" ( Lên Tây Bắc )
Song ở câu thơ của QDũng, người lính thật hồn nhiên và lãng mạn, vừa thật, vừa khái quát, vừa giàu ý nghĩa tượng trưng.
Thiên nhiên có lúc vụt hiện ra từ những câu thơ giàu giá trị tượng hình, một đỉnh cao nghìn thước. Đó là câu thơ:
"Ngàn thước lên