Tư liệu về tác giả Nguyễn Tuân
mình tích lũy được trên bước đường xê dịch.
- Một năm sau, 1939, bằng tập truyện "Vang bóng một thời" Nguyễn Tuân đã vươn đến đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm gần đạt đến độ "toàn thiện toàn mỹ" ấy (Vũ Ngọc Phan) góp phần đưa nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa. "Vang bóng một thời" vẽ lại những cái "đẹp xưa" của thời phong kiến suy tàn, thời có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú thích chơi lan chơi cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp chén trà trong sương sớm với tất cả nghi lễ thành kính đến thiêng liêng. Cũng vào thời ấy, tên đao phủ còn chém người bằng đao, người ta còn đi lại trên đường bằng võng, bằng cáng ; vừa đi vừa dềnh dàng đánh cờ bằng miệng, ... Thời gian hầu như chưa trở thành nỗi ám ảnh lớn đối với con người, bởi nó còn được đo bằng mùa, bằng tiết. Nhưng những vẻ đẹp có màu sắc truyền thống ấy đang có nguy cơ bị mai một. Ðau đớn nhận ra điều đó, Nguyễn Tuân ra sức níu giữ, gom góp và phục chế lại bằng tất cả tấm lòng thành kính. "Vang bóng một thời", vì thế, có thể được xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.
- Từ sau "Vang bóng một thời" đến năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân dần đi vào ngõ cụt. Nếu như ở "Thiếu quê hương" (1940), "Chiếc lư đồng mắt cua" (1941) tuy mải mê với những lạc thú trần tục, cái "tôi" vẫn còn đầy tự trọng và giữ được ý thức về bản thân mình thì từ 1942, tình hình có khác đi. Vẫn cái "tôi" ấy nhưng đã có vẻ mất tự tin và niềm tin vào cuộc sống. Trong những năm đen tối này, đời sống tinh thần của Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng ngày càng khủng hoảng sâu sắc. Những trang viết thưa dần. Bên cạnh những đề tài cũ (vẻ đẹp xưa, đời sống trụy lạc), xuất hiện thêm các đề tài mới hướng về thế giới của yêu tinh, ma quỷ. Ngay tiêu đề các tác phẩm : "Xác ngọc lam", "Ðới roi", "Rượu bệnh", "Loạn âm" cũng đủ nói lên tình trạng bế tắc của ngòi bút Nguyễn Tuân thời kỳ này.
* Dõi theo quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, thật dễ nhận ra sự thay đổi rõ rệt về tư tưởng nghệ thuật, nhất là từ "Vang bóng một thời" trở về sau. Ðiều này hoàn toàn có thể lý giải được nếu nhìn vào quy luật của chủ nghĩa lãng mạn : bao giờ cũng khởi đầu thật ấn tượng bằng việc khám phá và đề cao cái "tôi" cá nhân, để rồi sau giây phút choáng ngợp ấy tất cả vụt trở nên nhỏ nhoi, trống vắng và buồn chán đến nao lòng. Dẫu sao, những trang viết của Nguyễn Tuân vẫn luôn được đón nhận bằng thái độ trân trọng và thông cảm sâu sắc; bởi độc giả nhận ra ở đấy một tấm lòng chân thành, cả trong những thời điểm khắc nghiệt nhất.
2) Những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, ngoài một vài tùy bút ngắn ghi lại tâm trạng vừa hoang mang vừa đầy ắp hy vọng của một trí thức tự "lột xác" để dấn thân vào cuộc đời mới (Vô đề, Ngày đầy tuổi tôi Cách Mệnh), Nguyễn Tuân còn có "Chùa Ðàn" - một tác phẩm được viết khá công phu và đầy tâm huyết. "Chùa Ðàn" là truyện về một nhân vật mắc căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ đến tàn nhẫn ; nhưng từ sau 1945, như được uống liều thuốc cải lão hoàn đồng, tự cải tạo vươn lên thành con người mới, sống chan hòa với xung quanh. Có nhiều ý kiến đánh giá chưa thật thống nhất đối với tác phẩm này. Mới đọc qua, dễ có ấn tượng về một quá trình đổi thay có vẻ giản đơn, công thức. Nhưng nếu xem xét tác phẩm trong cả quá trình sáng tác của nhà văn thì không thể không công nhận "Chùa Ðàn" là một cố gắng đáng trân trọng.
- Tiếp theo, hai tập tùy bút : "Ðường vui" (1949) và "Tình chiến dịch" (1950) - ghi nhận chuyển biến thật sự sâu sắc của ngòi bút Nguyễn Tuân. Ðáp lời kêu gọi của Ðảng, Nguyễn Tuân hăng hái xốc ba lô lên vai dấn thân khắp các nẻo đường chiến dịch. Cái "tôi" giờ đây không còn phá phách, ngông nghênh nữa mà rưng rưng hòa nhập, sẻ chia với đồng bào đồng chí. Giọng điệu văn chương trở nên sôi nổi tin yêu, tràn ngập một tình cảm chân thành đến hồn nhiên đối với quê hương đất nước, với Cách mạng và kháng chiến. Ngỡ như sau phút dừng chân bên đường để định phương hướng, Nguyễn