Bi kịch của người phu nữ trong Ca Dao VN
“thiếp”- “chàng” thiết tha, da diết. Rõ ràng lớp vỏ ngôn từ là “phụ tình”,”bạc tình”, “trách” mà ta vẫn có cảm giác người con gái đang cố gắng trong bất lực để níu kéo chàng trai, vẫn thấy cái tình quyến luyến, nồng thắm trong lòng họ đang cháy âm ỉ cháy trong hi vọng mong manh. Ca dao với thể thơ lục bát giàu nhạc điệu và những đặc trưng rất riêng về mặt ngôn từ không những cho thấy nỗi đau mà còn toát lên được vẻ đẹp tâm hồn, lòng vị tha và sự chung tình của phụ nữ xưa.
b) Nỗi đau tình duyên bị ngăn cấm
Có thể nói, chính những quan niệm xã hội khắt khe, vốn đã giam cầm người phụ nữ trong vách ngăn của nỗi mặc cảm thân phận, bây giờ lại một lần nữa đẩy tình yêu của họ đến chỗ tan vỡ không thành. Phải chăng những quan niệm cổ hủ, lạc hậu, phi lí mới thực sự là vật cản bước chân người phụ nữ trên hành trình kiếm tìm và góp nhặt hạnh phúc? Lại một lần khát khao mà không thể có được hạnh phúc nghĩa là thêm một bi kịch nữa xuất hiện trong cuộc đời người phụ nữ ngày xưa. Vì vậy, trong ca dao, ta bắt gặp không ít những cuộc tình đổ vỡ bởi những lề thói khắc khe của chế độ phong kiến.
“Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi
Biết rằng có được ở đời với nhau
Hay là vào trước ra sau
Cho cực lòng thiếp cho đau lòng chàng.”
hay:
“Lửa nhen mới bén duyên trầm
Trách sao cha mẹ nỡ cầm duyên con.”
hay:
“Chanh chua quít ngọt đã từng
Còn cây khế chín trên rừng chưa ăn
Hay là thầy mẹ cấm ngăn
Không cho đôi lứa đắp chăn cùng giường.”
Mấy ai thấu hiểu được nỗi đau của những thân gái bị cha mẹ ép duyên, phải vùi lấp cả tuổi xuân trong những cuộc hôn nhân được sắp đặt trước :
“Mẹ em tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.
Em đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào
Bây giờ chồng thấp vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng .”
Dẫu rằng những nỗi đau ấy không chua chát, đắng cay bằng nỗi đau bị phụ tình nhưng nó cũng đã đẩy người phụ nữ lùi xa thêm một bước nữa trên con đường đến với hạnh phúc.
2. Bi kịch hôn nhân:
Cuộc đời phụ nữ đâu chỉ phải gánh chịu những bất hạnh trong tình yêu, khi đã tìm được bến đỗ của cuộc đời, cứ ngỡ rằng họ sẽ hạnh phúc, thế nhưng họ cũng phải đối mặt với vô vàn những trái ngang, nghịch cảnh. Nổi bật lên trong ca dao xưa là nỗi đau của những thân gái phải chịu kiếp “chồng chung” .
Nỗi đau của những người vợ cả có lẽ không được đề cập một cách rõ nét trong ca dao, bởi ít nhất họ cũng có danh phận. Nhưng trong niềm cảm thương cho những kiếp chồng chung, thấp thoáng đâu đó ta bắt gặp những nạn nhân của thói “có mới nới cũ”. Người đời thường nói: đàn ông yêu bằng mắt. Bởi vậy, những người vợ cả thường là những kẻ yếu thế trong cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chốn tình trường. Nhưng xét cho cùng, sự phai tàn xuân sắc của họ là kết quả của những tháng năm dài hi sinh vì chồng, vì con. Ấy vậy mà đáp lại mong ước giản dị của họ là sự phụ bạc phũ phàng của những ông chồng gió trăng:
“Có lá lốt tình phụ xương sông
Có chùa bên Bắc, bỏ miếu bên Ðông tồi tàn.”
Hay
“Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ
Con thơ tay ẵm tay bồng
Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông.”
Bước ra từ những đổ vỡ ấy, những người vợ chợt nhận ra niềm vui gia đình, hạnh phúc hôn nhân mà trước đây cuộc đời đã hào phóng ban tặng cho họ thực chất chỉ là ảo tưởng xa vời. Họ lại trở về là chính họ, những con người chưa từng mảy may chạm tới được thiên đường hạnh phúc !
Nhưng đau đớn hơn cả những người vợ cả là kiếp làm lẽ. Nào ai hiểu hết những nỗi niềm không thể tỏ bày, họ chỉ biết mượn ca dao để giải tỏa những phiền muộn chất chứa trong lòng :
“Thân em làm lẽ chẳng nề
Đâu như chánh thất mà lê lên lên giường
Tối tối chị giữ mất chồng
Cho một manh chiếu nằm suông chuồng bò
và còn :
“Thân em làm lẽ vô duyên
Mỗi ngày một trận đòn ghen tơi bời
Ai ơi ở vậy cho rồi
Còn hơn làm lẽ, chồng người khổ ta.”
Nếu như những bi kịch thân phận hay bi kịch bị phụ tình là những bi kịch rất dễ nhận thấy ở người phụ nữ, họ dễ được cảm thông chia sẻ thì bi kịch