an dương vương-mị châu trọng thuỷ
Truyền thuyết An dương Vương là một trong những truyện cuối cùng của nhóm chủ đề giữ nước nói riêng và của pho sử thi anh hung Việt cổ nói chung. Tương truyền rằng, An Dương Vương nối nghiệp các Vua Hùng dời đô từ vùng núi Nghĩa Linh hẻo lánh về đồng bằng Cổ Loa (hay Kẻ Chủ) để thể hiện bề phát triển, một chính sách sáng suốt. Không những thế, vua tôi Âu Lạc còn thể hiện được tinh thần quyết tâm chống giặc thong qua việc xây chính vòng thành ốc khổ cực và khó khăn. “Được long trời, hợp long dân” đến nỗu vũ khí trong tay người Âu Lạc chỉ là cây nỏ mà được thần thánh hóa, “bắn một phát chết hàng vạn tên”, là cả một bước tiến lớn lao về kỹ thuật quốc phòng ngay từ buổi đầu dựng nước. Chiến thắng của An Dương Vương đẩy lùi cuộc xâm lược lần thứ nhất của tên Triệu Đà càng chứng tỏ sức mạnh khối tự cường dân tộc được thần linh phù trì. Nhưng cay đắng chua xót thay, biến cố mất nước đầu tiên trong lịch sử lại đến cùng lần cử binh Nam xâm thứ hai của đà và để lại là cả một bi kịch...
Quay ngược guồng Thế Giới về thời điểm trước đó không lâu, ngày Đà lần đầu kép binh sang mà nếm mùi lợi hại của thần cơ, bàn chạy về Trâu Sơn cầm cự rồi phải xin hòa. Không bao lâu sau, Đà lại cầu hôn cho con trai là Trọng Thủy. Một người trí dũng song toàn, lo nước thương dân nổi danh với sự cảnh giác cao độ như An Dương Vương mà lại đi tin vào “thiện chí” của quân thì, tin rằng quan hệ gia đình sẽ làm dịu nhẹ đi bớt sự đối đầu gay gắt. và thế là vua “vô tình” gả con gái cho thì, “vô tình” tự đưa mình vào thế hiểm, “vô tình” đẩy cả dân tộc Âu Lạc vào rọ đầy rẫy âm mưu đen tối của cha con họ Triệu. Hơn thế nữa, vua còn dễ dãi làm trái cả tập tục người Việt cổ là cho Trọng Thủy ở rể, tăng them cơ hội thực hiện mưu đồ thông qua nội gián, tạo nhiều thuận lợi cho quân thù tự do len lỏi vào sâu lãnh thổ nước nhà. Nếu kỳ tích xây thành, chế nỏ làm nên chiến thắng oanh liệt lần trước là kỳ tích thực sự mang đậm tính thần thoại thì thạt bại do chính mình gây nên cớ sự lần này lại hoàn toàn thực tế và đầy đau xót. An Dương Vương bắt đầu vướng mắc vào những mâu thuẫn rất trần thế và những mâu thuẫn này bắt nguồi từ chính tình yêu tưởng như đáng trân trọng của Mị Châu. Nàng nhẹ dạ, thơ dại, trực tiếp đưa đất nước Âu Lạc đến diệt vong, đưa sự nghiệp vua cha đến bờ vực tiêu tan. Càng làm tròn chữ tòng bao nhiêu thì bang càng dấn thân sâu vào con đường phản nghịch bấy nhiêu. Con gái thì xiêu lòng làm mất nỏ hồi nào không hay, vua cha thì không chút nghi ngờ đứa con rể quý. Đến tận khi người thong gia ông vốn không hề cảnh giác bất ngờ đem quân sang đánh, vua vẫn điềm nhiên đánh cờ và cười nói ngạo nghễ: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Ỷ vào sức mạnh siêu nhiên thần Kim Quy ban tặng, quá dựa dẫm vào những cái tưởng chừng đang nắm chắc trong tay đến mức u tối, ngạo mạn, sự khinh địch bộc lộ rõ rệt khi quân Đà tiến sát vua mới cần lấy nỏ rồi cùng lúc phát hiện ra nỏ giả chứ không hề phòng thủ hay có bất kỳ biện pháp kháng địch nào. Thái độ chủ quan, mất cảnh giác của cả hai cha con An Dương Vương đã đưa cả cơ đồ họ Thục chìm đắm xuống biển sâu… Những con sóng biển Đông vỗ rì rào tan đi rồi có quay trở lại, chứng kiến bờ biển này vẫn nhớ hoài cái hình ảnh hai kẻ thua cuộc trong trò chơi mà họ tự gài mình vào thế bị động, đau xót và thao thức lòng?
Khi ấy, Rùa Vàng hiện lên tố cáo đanh thép, kết tội Mị Châu là giặc; mà chẳng phải đó cũng là lời kết tội của đông đảo con gười Âu Lạc, cả công lý, của nhân dân đối với con người phản quốc hay sao? Một lần nữa, An Dương Vương đã quá cậy nhờ vào quyền uy của sứ Thanh Giang mà tuốt kiếm chém Mị Châu ngay tức khắc, càng chứng tỏ hành động quyết liệt đó là hành động của con người dứt khoát. An Dương Vương đã đứng về phía công lý và quyền lợi dân tộc để xử tội máu mủ của mình, đồng thời là sự tỉnh ngộ dẫu có muộn màng nhưng vẫn vớt vát được chút thương cảm của nhân dân cho vị vua cả cuộc đời sống cho đất nước. Khi đặt An Dương Vương về đúng cương vị của một người cha, trước mặt ông là biển cả, sau lưng là giặc sắp đuổi đến nơi, người