Đọc Lại Truyện Ngắn "đôi Mắt"
nghiêm khắc ấy không muốn trí tưởng tượng của mình tung hoành quá tự do chăng ?). Nhưng sự thực ấy đã được nhìn từ chỗ đứng nào, từ ánh sáng nào của những tư tưởng gì ? Muốn biết điều này, cần nhớ rằng Đôi mắt được viết vào mùa xuâ năm 1948 tại Việt Bắc, vài tháng sau khi Nam Cao được kết nạp vào Đảng. Đó cũng là lúc quân dân ta vừa liên tiếp ghi được những chiến công vang dội: Chợ Đồn, Chợ Rã, Bông Lau, Sông Lô v.v… bẻ gẫy cuộc tấn công đại quy mô của giặc Pháp lên Việt Bắc thu đông năm 1947. Đôi mắt được viết xen kẽ với một tác phẩm khác cũng rất đặc sắc của Nam Cao: Nhật ký ở rừng. Đọc tác phẩm này, thấy tâm trạng nhà văn lúc bấy giờ đang náo nức một niềm tin tưởng và tự hào ở cuộc kháng chiến mà ông đã thực sự góp phần vào, đồng thời dào dạt những tình cảm đầy cảm phục trước vẻ đẹp tâm hồn cao cả của đồng bào Việt Bắc mà ông lần đầu được tiếp xúc. Ông ghi vào nhật ký ngày 3-11-1947: “Gần gũi những người Dao đói rách và dốt nát, thấy họ rất biết yêu cách mạng, làm cách mạng chân thành, sốt sắng và tận tuỵ, chúng tôi thấy tin tưởng vô cùng. So sánh họ với mấy thằng “bố vấu” mà Khang gọi là trí thức nửa mùa, Khang rất bất bình đối với hạng này. Chúng nó chẳng yêu một cái gì, chẳng làm một cái gì. Chúng nó chỉ tài chửi đổng.” (Ở rừng – Nam Cao, tác phẩm, tập II, 1977)
Hoàng là một trong những thằng “bố vấu”, có “tài chửi đổng” ấy chăng? Anh ta chẳng làm cái gì hết, trong khi mọi người nỗ lực tham gia kháng chiến. Ích kỷ đại hạng, nhưng động mở miệng là chửi thiên hạ ngu dốt, bần tiệtn – Mà sao những người như thế lại chúa là hay nhân danh đạo đức, nhân nghĩa ? Này đây, hãy nghe người vợ Hoàng phụ hoạ với những nhận xét của chồng về sự mà chị ta gọi là “thiếu tình nghĩa của người dân quê”: “Họ làm chính chúng tôi cũng đâm lo. Có thể nói rằng trong một trăm người thì chín mươi chín người cho rằng Tây không đời nào dám đánh mình. Mãi đến lúc có lệnh tản cư tôi vẫn cho là mình tản cư để doạ nó thôi. Thế rồi, đùng một cái, đánh nhau. Chúng tôi chạy được người chứ của thì chạy làm sao kịp ? May mà còn vớt vát được ít tiền, một ít hàng để ở cái trại của chúng tôi ở ngoại thành. Khéo lắm thì ăn đựơc độ một năm. Đến lúc hết tất nhiên phải khổ rồi. Chỉ sợ đến lúc ấy, họ lại mỉa lại. Thành thử bây giờ lý ra thì có muốn ăn một con gà chưa đến nỗi không mua nổi mà ăn, nhưng ăn lại sợ người ta biết, sau này người ta nói cho thì nhục. Họ tàn nhẫn lắm cơ bác ạ!”
Tôi chắc, khi ôn lại trong tâm trí mình câu nói ấy, Nam Cao đến lộn ruột lên được. Nhưng giọng kể chuyện cứ thản nhiên như không. Ấy, bản lĩnh của ngòi bút Nam Cao là thế: anh nén chặt tình cảm của mình lại để người đọc tự tìm ra ý nghĩa mà càng thêm phẫn nộ - phẫn nộ mà cứ phải bật cười - trước một thái độ hết sức ích kỷ mà cứ nhơn nhơn và ngọt xớt như không.
Nhà văn Tô Hoài còn gọi Đôi mắt là một thứ tuyên ngôn nghệ thuật chung của lớp nghệ sĩ các anh hồi ấy.
Cứ như cái tên của nó thì tác phẩm muốn nói vấn đề cách nhìn, vấn đề quan điểm. Điều ấy đã rõ. Nhưng nói cho chặt chẽ hơn, căn cứ vào nội dung hình tượng, thì nó trước hết là mâu thuẫn về lập trường. Một đằng coi cuộc kháng chiến là của mình và tích cực tham gia kháng chiến. Một đằng tự xem như người ngoài cuộc, từ chối không làm gì hết, dù chỉ là công tác Bình dân học vụ trong làng. Một đằng vui sướng trước cuộc đổi đời của nhân dân, và nhìn cuộc sống mới, tư thế mới và cách mạng đem đến cho nhân dân lao động là tốt đẹp. Một đằng chỉ thấy thế là lố bịch, là hài hước. Nói cho đúng, những nhận xét của Hoàng về người nông dân không phải điều sai cả. Nhưng rõ ràng là thiếu độ lượng, thiếu thiện chí – cái nhìn của một người tuy không phải hoàn toàn không có lòng yêu nước, nhưng tỏ ra chưa tán thành cách mạng và kháng chiến. Lập trường ấy quyết định cách nhìn của anh mà Nam Cao gọi là chỉ thấy có một phía “Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn”, nhưng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân thù. Mà ngay trong cái việc anh thanh niên đọc thuộc lòng bài báo như một