Tì bà hành của Bạch C ư Dị
Tác giả và xuất xứ bài thơ
1. Bạch Cư Dị (772 – 846) đậu tiến sĩ năm 28 tuổi, làm qua đời Đường tại kinh đô Tràng An. Có một thời gian bị giáng chức xuống làm Tư mã ở quận Cửu Giang. Ông là một trong những nhà thơ lớn nhất đời Đường, để lại trên 3000 bài thơ. Thơ ông chứa chan tinh thần nhân đạo.
2. “Tì bà hành” là bài hành nói về tiếng đàn tì bà của một giai nhân bạc mệnh trên bến Tầm Dương một đêm trăng thu. Năm 816, Bạch Cư Dị bị giáng chức xuống làm quan Tư Mã, quân Cửu Giang. Một đêm trăng thu đẹp mà buồn, ông được nghe người ca nữ gảy đàn tì bà và kể về cuộc đời nhiều bất hạnh của nàng, Bạch Cư Dị cám cảnh “Cùng một lứa bên trời lận đận…” đã khóc “sướt mướt” trong bữa tiệc hoa sau khi ca nữ ngừng đàn.
Bài thơ dài 88 câu thất ngôn gồm có (7x88) – 616 tiếng. Bản dịch thành thơ song thất lục bát, cũng 616 từ. Bản dịch thơ này, lâu nay nói là của Phan Huy Vịnh, gần đây có ý kiến là của Phan Huy Thực, thân sinh của Phan Huy Vịnh. Hầu như không có một nghệ nhên hát ca trù nào lại không thuộc và hát hay “Tì Bà Hành”
Chủ đề
Bài thơ tả tiếng đàn tì bà huyền diệu của một ca nữ trên bến Tầm Dương trong một đêm trăng thu hiu hắt, qua đó nói lên cuộc tương ngộ và sự đồng cảm cho số phận cay đắng giữa giai nhân và tài tử.
Bố cục bài thơ
1. Câu 1 – 8: cuộc đưa tiễn bạn buồn lưu luyến giữa một đêm trăng thu hiu hắt trên bến Tầm Dương.
2. Câu 9 – 38: Gặp ca nữ và nghe nàng đàn.
3. Câu 39 – 62: Ca nữ ngậm ngùi nói về cuộc đời nhiều bất hạnh của mình.
4. Câu 63 – 82: Nhà thơ thương người rồi tự thương mình lận đận.
5. Câu 83 – 88: Ca nữ đàn lần thứ hai. Tiệc hoa đầy lệ
Phân tích đoạn thơ tả tiếng đàn tì bà
… Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng hay
Nghe não một mất dây buồn bực
Dường than niềm tấm tức bấu lâu
Mày chau tau gảy khúc sầu,
Dãi bày hết nỗi trước sau muôn vàn.
Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt
Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu,
Dây to đường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy
Mâm ngọc đâu bổng nẩy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ,
Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước,
Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao;
Cung đàn trọn khúc thanh tao:
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông…
Phân tích
Thành tựu nổi bật nhất trong “Tì bà hành” là nghệ thuật miêu tả tiếng đàn. Trong bữa tiệc hoa trên bến Tầm Dương giữa trăng thu hiu hắt, thính giả của ca nữ là một tài tử văn nhân rất sành nhạc, đặc biệt hơn nữa ông còn có một cuộc đời, một nỗi niềm cay đắng, trải qua nhiều thăng trầm, trôi nổi lận đận…
Lần thứ nhất, tả từ xa, tiếng đàn mơ hồ sương khói Tầm Dương.
Câu thứ hai, tiếng đàn được tả trong mọi cung bậc, giai điệu và cảm xúc, nỗi niềm của tâm hồn đa tài, đa cảm.
Ngón tay ca nữ “buông, bắt” lướt trên phím đàn. Hai khúc nhạc cung đình ngân vang thánh thót. Câu thơ làm hiện lên một nghệ sĩ bì bà hành lỗi lạc:
“Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt
Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu”
Mười bốn câu tiếp theo, Bạch Cư Dị sử dụng một chuỗi 9 ẩn dụ so sánh để cực tả tiếng đàn tì bà của nàng ca nữ.
Tiếng đàn biến hóa kì ảo, lúc thì ào ào như mưa rào, lúc thì nỉ non, thủ thỉ như lời tâm tình:
“Dây to đường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.”
Tiếng đàn lanh lảnh reo ngân như hạt châu nẩy trên mâm ngọc, như tiếng chim oanh ríu rít trong ngàn hoa:
“Tiếng cao thấp lựa chen lần gảy
Mâm ngọc đâu bổng nẩy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau…”
Tiếng tì bà đang như “nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh” thì bỗng đột ngột “ngừng đứt”. Nàng ca nữ diễn tấu “dấu lặng” trong bản đàn một cách tài tình. Người dự tiệc hoa và ngồi thưởng thức ca nữ đàn đều “ngẩn ngơ” trước sự huyền diệu của suối