Thuyết minh về cái quạt
thang là hình dạng cổ truyền và phổ biến nhất ở Bắc Trung bộ. Tôi đã tự thử thay chiếc quạt giấy bằng quạt nan, hiệu quả thị giác không khác nhau là bao, nhưng có sự thay đổi về hàm lượng văn hóa. Nếu bên anh bộ đội, không phải bà mẹ mà là một cô thôn nữ, chắc chiếc quạt giấy sẽ hợp hơn. Người viết cảm thấy có sự sự băn khoăn trong sự lựa chọn ở họa sỹ. Tư thế cầm quạt của bà mẹ là tư thế cầm quạt nan không phải là tư thế cầm quạt giấy. Khi cầm quạt giấy, ngón cái ngửa ra ngoài, bốn ngón còn lại hướng vào trong, vì quạt giấy quạt bằng cổ tay chứ không quạt bằng cánh tay như quạt nan.
Khi Hồ Xuân Hương có hai bài thơ Vịnh cái quạt nữ thi sỹ họ Hồ này đã vịnh quạt giấy. Ngoại trừ sự tương đồng của hình ảnh “ chành ra ba góc da còn thiếu, khép lại đôi bên thịt vẫn thừa” của chiếc quạt rất nhiều ngụ ý, thì chiếc quạt giấy nó vốn là một vật gắn bó với tầng lớp trên của xã hội hơn. Nên quả không ngoa khi bà viết rằng: “ mát mặt anh hùng khi tắt gió - che đầu quân tử lúc sa mưa”, hay là “ hồng hồng má phấn duyên vì cậy - chúa dấu, vua yêu một cái này”.
Tản mạn về chiếc quạt nan. Chiếc quạt nan mang dấu ấn của Văn hóa tre nứa. Tôi vẫn đinh ninh rằng chiếc quạt tre hình thang là một nét văn hóa cổ truyền của người Việt và nó thể hiện một thứ văn hóa nông dân của các cư dân nông nghiệp. Trung Quốc là một trong những cái nôi văn minh thế giới, lịch sử quạt của Trung Quốc có từ rất sớm (từ đời Thương, khoảng từ thế kỷ 17 - tk 11 TCN), cùng với Ai Cập là hai cái nôi của chiếc quạt tay. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc dành nhiều quan tâm tới các loại quạt gấp (quạt ngà, quạt giấy) hay tròn (quạt có hình tròn có cán). Loại quạt hình tròn gọi là đoàn phiến. Loại đoàn phiến này cũng đa phần bằng giấy. Các loại quạt giấy ở Trung Hoa còn được vẽ lên các bức tranh thủy mặc vô cùng đặc sắc. Quạt giấy ngoài trọng lượng nhẹ hơn hẳn các loại quạt nan và quạt lông lại được trang trí đẹp nên được ưa chuộng từ chốn cung đình tới nơi thôn dã. Quạt giấy gấp vào mở ra của Trung Hoa đã lan truyền đi khắp thế giới. Người Nhật đã thành công khi biến những chiếc quạt thành các biểu tượng văn hóa xứ hoa anh đào. Hình ảnh quý bà mắt xanh tóc vàng cầm quạt trong bức tranh sơn dầu của Claude Monet thể hiện cơn sốt Nhật Bản ở châu Âu lúc đó. Chiếc quạt giấy xòe ra và gấp lại cả một thế giới huyền bí, có lẽ vì thế mà người ta hay vẽ lên đó các bức tranh sơn thủy. Các động tác vũ đạo trong nghệ thuật sân khấu truyền thống Viễn Đông khó lòng thiếu được quạt giấy. Chính tà, trung nịnh đều được diễn tả qua cách điệu bộ với chiếc quạt.
Quạt lông cũng có một vị thế tinh thần không kém gì quạt giấy, đặc biệt về phương diện tôn giáo. Trong tám vị tiên của Đạo giáo Trung Hoa, Hán Ly Chung có chiếc quạt có quyền năng cải tử hoàn sinh vô cùng linh diệu. Gia Cát Lượng bậc tướng kỳ tài đa mưu túc kế thời Tam Quốc gắn liền với chiếc quạt lông phe phẩy. ở Việt Nam, chiếc quạt giấy và quạt lông hiện diện trong điêu khắc đình làng (đình Thổ Tang), trong tranh thờ Hàng Trống (Tố nữ), tranh Đông Hồ (Rước trống), trong Điệu múa cổ (Nguyễn Tư Nghiêm), tranh Chèo (Bùi Xuân Phái). Quạt giấy đã hiện diện từ thơ ca nhạc họa, điêu khắc suốt mấy trăm năm nay
Xét về thị giác, hình dẻ quạt của chiếc quạt giấy ưa nhìn hơn hình thang của chiếc quạt chiếc quạt nan.
Vậy có phải cái quạt nan dân giã không xứng đáng len chân vào thế giới nghệ thuật?
Tôi từng có nhận định rằng chiếc quạt nan hình thang là của người Việt. May thay, khi tìm hiểu về tranh khắc mộ Hán ở Trung Quốc, người viết đã nhìn thấy rất nhiều bức vẽ các nhân vật cầm quạt nan, giống hệt với chiếc quạt mà ta vẫn dùng hôm nay. Ban đầu quạt chỉ xuất hiện trong tay của Tây Vương Mẫu (một vị thần có vị trí tối thượng thời Tây Hán), hoặc những những người hầu đang quạt cho bà. Nhưng về sau, chiếc quạt nan không còn là sở hữu riêng có của Tây Vương Mẫu. Những bức tranh khắc cảnh nhà bếp ở Câu Nam thôn, Vi Sơn tỉnh Sơn Đông cuối thời Tây Hán, có khắc cảnh một người đang dùng quạt nan quạt thịt nướng. Bức tranh khắc trong một ngôi mộ