Tinh thần phục hưng trong thơ hồ xuân hương
đưa ra để đối đáp với chàng Chiêu Hổ, trong thơ Hồ Xuân Hương còn có vô số hang động được hình dung như là "cái ấy": một động Hương Tích… "khéo khéo phòm / nứt ra một lỗ hỏm hòm hom", một hang Cắc Cớ "trời đất sinh ra đá một chòm / nứt ra đôi mảnh hỏm hòm hom / kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn", một hang Thánh Hóa chùa Thầy "lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp / lách khe nước rỉ mó lam nham", một hang gì đó nữa ở đèo Ba Dội "cửa son đỏ loét tùm hom nóc / bậc đá xanh rì lún phún rêu", một cảnh trí Kẽm Trống "ở trong hang núi còn hơi hẹp / ra khỏi đầu non đã rộng thùng"…
Các thế hệ công chúng thưởng thức thơ Hồ Xuân Hương đã đọc ra nghĩa ám chỉ, nghĩa thứ hai − sự miêu tả bộ phận sinh dục của con người, nam và nữ, và hoàn toàn không phải họ cố tình hoặc thậm chí "bệnh hoạn" gán cho thơ bà cái nghĩa ám chỉ ấy, mặc dù trong sự cảm thụ này, trong sự "nhận biết đặc biệt" này, người ta có thể phải huy động đến một sự từng trải nhất định, một kinh nghiệm sống nhất định, một kinh nghiệm tình dục nhất định, đã có được ở đời sống cá thể. Nhưng ngay ở khía cạnh này, thơ Hồ Xuân Hương tuyệt nhiên không làm chức năng "giáo khoa" về sinh lý ở những thời mà con người kinh qua cuộc sống vợ chồng trong trạng thái còn gần như là "vô giáo dục" về tình dục.
Rồi chúng ta sẽ nói tới những ngọn nguồn văn hóa và ý nghĩa văn hóa của sự mô tả ám chỉ này. Nhưng ở đây, từ khía cạnh sáng tác văn học, cần ghi nhận rằng Hồ Xuân Hương công nhiên coi là bình thường, là hợp lẽ cái việc đem thơ ca mô tả thân thể người đàn bà, mô tả ngay cả những bộ phận thân thể mà người ta chỉ nên che đậy lại cho đúng với sinh hoạt văn minh, thế nhưng lại có cả một ý thức hệ muốn quên hẳn đi, xóa hẳn đi trong cách hình dung con người. Hồ Xuân Hương coi thân thể và cả bộ phận sinh dục trên cơ thể con người như là tự nhiên, thiên tạo, nó giống như tự nhiên, thiên nhiên vậy. Đã thế "quyền" miêu tả nó trong văn chương cũng là cả một quyền năng tự nhiên. Chỉ có thể quan niệm và sáng tạo theo tâm niệm như thế khi mà hoặc là người ta chưa biết đến hoặc là người ta chủ tâm bước qua, chủ tâm vi phạm những sự răn đe, cấm đoán nào đó ngược hẳn tâm niệm này, chẳng hạn, những răn đe nhân danh một chủ nghĩa cấm dục hà khắc, nhân danh sự sợ hãi mọi cách thức phô bày thân thể, giống như sợ hãi phô bầy tư tưởng.
Thật lý thú nếu có thể tìm hiểu xem ý niệm về "hang", "hang động" trong ký ức cổ xưa của người Việt (và của cư dân nhiều nơi khác) thường gợi lên những hàm nghĩa gì, và kèm theo đó, thử hiểu vì sao trong vô số những cách ám chỉ "cái ấy" ở người đàn bà, thơ Hồ Xuân Hương lại thường hay nói tới hang động đến như vậy? Dụng ý chăng? Hay chỉ là ngẫu nhiên, do "trực quan", do lợi dụng thể tài thơ vịnh cảnh? Một điểm khác, đáng lưu ý nữa trong lối "tức cảnh" khá đặc biệt − luôn bao gồm hai nghĩa này, − là những chỗ nhà thơ không mỹ hóa, không "làm đẹp" đối tượng (những hình dung từ đỏ loét, tùm hum, phòm, hỏm hòm hom, rậm rạp, lam nham, v.v.. và v.v…. cực kỳ gợi tả và hết sức độc đáo, nhưng không "đẹp" theo kiểu phổ biến mà người ta vẫn thấy ở thơ ngâm vịnh thù tạc, vốn thường là chỗ để người ta thi vị hóa cái nên thơ nên hoạ của đối tượng ngâm vịnh). Tiếng cười trào lộng đã làm biến đổi cách hình dung sự vật, và sự miêu tả ở đây trở nên gần gũi với các nguyên tắc miêu tả của nghệ thuật nghịch dị (grotesque): sự chuyển hóa các bộ phận thân thể con người với các sự vật tự nhiên, sự phóng đại quá cỡ, lối "làm méo" cố ý các tỷ lệ thông thường, v.v. (Có lẽ sẽ không phải là không nghiêm túc nếu đi vào nghiên cứu nghệ thuật nghịch dị trong các bộ môn văn nghệ ở ta từ cổ xưa mà một trong những đại diện rõ rệt của văn học là Hồ Xuân Hương). (1)
Đã không chút ngần ngại mô tả những chỗ kín của thân thể con người, nữ sĩ họ Hồ cũng không ngần ngại mô tả hoạt động giao hoan, và cũng hình dung nó như một cái gì rất tự nhiên, thiên nhiên. Các thế hệ công chúng truyền tụng thơ bà không chỉ nhạy bén nhận ra "chuyện ấy" qua những trò nói lái "đá đeo", "lộn lèo", "đếm lại đeo", "đáo nơi neo", "suông không