Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác
không là vuông hay tròn, mà là vui, buồn, mừng, giận, yêu, ghét…”(4). Qua hàng loạt lời thoại của các nhân vật, nhà viết kịch đã thể hiện một cái nhìn biện chứng đối với mối quan hệ Hồn - Xác. Người sống mượn hồn hay xác của kẻ khác thì cũng đều bất ổn như nhau, đều không còn là mình nữa. Một linh hồn dù tốt đẹp khi trú ngụ trong thân xác khác cũng sẽ bị biến dạng, bởi nó bị chi phối theo thói quen và bản năng của thân xác đó, hơn nữa nó luôn bị dằn vặt trong mặc cảm giả dối và ích kỉ. Chưa kể còn hàng loạt những hệ luỵ, rắc rối khác như đã xảy ra ở các màn kịch trước. Cuộc đấu tranh này cũng cảnh báo khả năng lấn át của thể xác, của những nhu cầu tầm thường đối với khát vọng sống cao đẹp.
Cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia là một bi kịch cho Trương Ba và càng đau đớn hơn nữa khi ông ý thức được rằng sự vay mượn này còn đem lại bao đau khổ cho những người thân của mình. Nó còn đáng sợ hơn cả cái chết. Hồn Trương Ba đã nói với cô con dâu: “Thày đã làm u khổ. Có lẽ cái ngày u chôn xác thày xuống đất, tưởng thày đã chết hẳn, u cũng không khổ bằng bây giờ”(5). Có lẽ đây cũng là một nguyên nhân khiến Trương Ba đi đến chấp nhận cái chết, trả lại xác anh hàng thịt. Từ tư tưởng triết lý đúng về quan hệ giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã đi đến một quan niệm đẹp về cách sống: sống chân thật đúng là mình, sống vì mọi người, vì hạnh phúc và sự tốt đẹp của con người. Trương Ba chết nhưng ông vẫn sống, sống trong tình cảm, trong “cõi nhớ” của mọi ngưòi, sống trong Sự sống, không cần phải mượn đến thân xác của người khác. Đó là suy nghĩ vừa biện chứng vừa lạc quan và cao thưọng. Ý tưởng sâu sắc đó, sau này lại được Lưu Quang Vũ thể hiện đậm nét trong vở Người trong cõi nhớ - một vở diễn đạt Huy chương vàng Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985. Kịch bản này có một lối kết cấu khá độc đáo. Các nhân vật xuất hiện đồng thời theo các bình diện không gian khác nhau. Những người đang sống và những người đã chết. Đã chết như chỉ là mất đi cái phần thân xác, những tư tưởng, tinh thần, những khát vọng, ước mơ cao đẹp của họ vẫn sống. Sống trong sự nghiệp, trong nỗi nhớ thường ngày của những người đang sống hôm nay. Qua lời của một nhân vật kịch, Lưu Quang Vũ đã bộc lộ quan niệm của anh về sự sống chết: Con người tồn tại ở ba cõi. Đó là thế giới của những người đang sống và cõi lặng im. Cõi thứ ba: Cõi của những người đang sống TRONG TRÍ NHỚ CỦA NGƯỜI KHÁC, những người không bị lãng quên... Và có thể nói quan niệm này đã chi phối hàng loạt các vở kịch khác của anh.
Hồn Trương Ba da hàng thịt là một tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ. Năm 1990, tại Liên hoan Sân khấu Quốc tế lần I tổ chức tại Mátxcơva, lần đầu tiên xuất ngoại, vở diễn đã được đánh giá xuất sắc nhất Liên hoan. Năm 1998 vở Hồn Trương Ba da hàng thịt đã đi lưu diễn tại Mỹ trong chương trình giao lưu sân khấu Việt - Mỹ (V.A.T.E.I) được đánh giá là sự kiện văn hoá lớn. Nhà văn Hồ Anh Thái - người được chứng kiến không khí sôi động của đêm diễn trên đất Mỹ sau này đã tái hiện lại qua bài viết Đêm không ngủ ở Seattle (mượn tên một bộ phim nổi tiếng của điện ảnh Mỹ)(6). Tác giả Phan Ngọc cũng đã có những lời đánh giá cao đối với tác giả vở diễn này: “Theo tôi nghĩ, Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch lớn nhất thế kỷ này của Việt Nam, là một nhà văn hóa... Có một Kịch pháp Lưu Quang Vũ mà cả Đông Nam Á có thể tiếp thu. Vũ là một Prôtê, vị thần trong thần thoại có thể thay hình đổi dạng tuỳ theo sở thích… Không ai bằng Vũ trong biệt tài nêu lên cái muôn đời trong cái bình thường, biến cổ tích, huyền thoại thành chuyện thời sự, dùng cái hư để nói cái thực, dùng cái thô lỗ để khẳng định cái cao quý