Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
là hai miền đất nước, là xứ sở quê hương. Nhạn và hồng (ngỗng trời), trong thi văn cổ, là loài chim đưa tin, là biểu tượng cho tin tức. “Trông tin nhạn” với “bặt tiếng hồng” đối nhau làm nổi bật sự ngóng và trông đến tuyệt vọng. Đó là nỗi lòng của đồng bào Lục tỉnh và thảm cảnh của đất nước ta trước và sau năm 1884. Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù đầy mẫn cảm. Trong thơ ông, những từ như “ngóng”, “trông”, “chừng nào”, “đợi”,… mang nhiều ám ảnh và đầy tâm trạng:
“Nhớ câu vạn bệnh hồi xuân,
Đôi ngày luống đợi Đông quân cứu đời”
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Nguyễn Đình Chiểu còn “trông tin nhạn”, còn “luống đợi Đông quân cứu đời”,… nhưng hơn 20 năm sau, Yên Đổ thao thức giữa đêm thu và bồn chồn; ngơ ngác hỏi: “Một tiếng trên không ngỗng nước nào?” (Thu vịnh).
3. Giọng thơ từ thương cảm nghẹn ngào ở 4 câu đầu chuyển thành căm thù uất hận, vang lên như một lời thề nung nấu. Cách ngắt nhịp 3–4 tạo thành một biến tấu đầy rung động:
“Bờ cõi xưa/ đà chia đất khác
Nắng sương nay/ há đội trời chung”
“Bờ cõi xưa” là Tổ quốc ngàn đời” đã chia đất khác”, đã bị quân thù giày xéo, đã bị Triều đình cắt cho giặc Pháp 3 tỉnh miền Đông, rồi cắt nốt 3 tỉnh miền Tây, dâng nộp cho chúng. “Nắng sương” là ngày, đêm. “Há” - tiếng cổ, nghĩa quyết không thể. “Há đội trời chung” là quyết không đội trời chung với giặc Pháp. Cũng là cách nói truyền thống biểu lộ một tinh thần quyết tử trong thơ văn cổ. Trong phần luận bài thơ này là một lời thề trang nghiêm. Trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, ông đã nguyền: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”. Thái độ quyết liệt ấy còn được thể hiện ở sự chối từ của nhà thơ khi chính quyền thực dân hứa trả lại ruộng cho ông, ông đã dứt khoát bảo chúng: “Đất chung còn bị mất, đất riêng còn có được sao?”. Thái độ quyết không đội trời chung với giặc của Nguyễn Đình Chiều, của các chiến sĩ yêu nước mãi mãi là bài học về lòng trung nghĩa cho mỗi chúng ta.
4. Nếu ở câu 1 là “ngóng gió đông”, câu 3 là “trông tin nhạn”, thì câu 7 là một tiếng hỏi, một lời chất vấn, là một sự mong đợi:
“Chừng nào Thánh đế ân soi thấu.
Một trận mưa nhuần rửa núi sông”
Câu thứ 2 hỏi: “Chúa xuân đâu hỡi có hay không?”, hỏi bằng một ẩn dụ. Câu 7 hỏi trực tiếp. “Thánh đế” tức là hỏi vua. Đằng sau câu hỏi là một lời trách nhà vua chưa “soi thấu”, chưa hết lòng vì nước vì dân. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho, cho nên trong cảnh “súng giặc đất rền”, tâm hồn ông trước sau vẫn hướng về một “Thánh đế”, một “Đông quân”, một “Đông hoàng”. Vua đã phản bội đầu hàng rồi, còn đâu “Thánh đế” nữa? Đó là một hạn chế của thời đại mà Nguyễn Đình Chiểu một nhà nho khó lòng vượt qua.
Câu thứ 8, niềm mơ ước được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ “một trận mưa nhuần”. Trận mưa ấy “rửa núi sông”, rửa sạch hận thù, rửa sạch nỗi đau, nỗi nhục mất nước, rửa sạch “mùi tinh chiên vấy vá”… mùi dơ bẩn của loài dê chó, của lũ sài lang. Đất nước trở lại thanh bình, hoa cỏ được hồi sinh, nhân dân sống trong yên vui hạnh phúc là mơ ước của ông.
Tóm lại, “Xúc cảnh” là một bài thơ tuyệt bút. Một hệ thống ẩn dụ tượng trưng tạo nên tính đa nghĩa của bài thơ. Nỗi niềm chờ trông, mong đợi, một quyết tâm không đội trời chung với giặc, lúc cảm thương, khi căm giận, giọng điệu đa thanh, biến hóa vô cùng xúc động. “Xúc cảnh” đích thực là một bài ca yêu nước, thể hiện tâm hồn trung nghĩa của nhà thơ mù miền Nam mãi mãi vằng vặc như sao Bắc đẩu.