Đôi điều về quan niệm văn học của Cao Bá Quát
Cao Bá Quát là nhà thơ lỗi lạc thời trung đại, chẳng những sáng tác hết sức dồi dào mà quan niệm về văn học cũng có nhiều điều mới mẻ so với thời đại của ông. Trong điều kiện tư liệu còn hạn chế, tập 2 Toàn tập Cao Bá Quát chưa xuất bản, chúng tôi xin đưa ra đôi điều nhận xét sơ bộ.
Trước hết là quan niệm của ông về mối quan hệ giữa văn chương và quốc ngữ. Quốc ngữ là tiếng nói của dân tộc, còn văn chương là ngôn từ nghệ thuật, văn học, hai phạm vi khác nhau. Nói về quốc ngữ, quan điểm của Cao Bá Quát thực rõ ràng. Ông viết: “Sống ở đất này, có thể bỏ được tiếng quốc ngữ không? Không bỏ được. Đọc sách quốc ngữ, có thể bỏ được truyện Hoa tiên và Kim Vân Kiều không? Không bỏ được. Ôi, người xưa đã đem tâm chí đúc chuốt thành lời hay ý đẹp, cốt để chắp lòng nối cánh cho văn chương của ta, mà lại coi thường được sao?”(1).
Quốc ngữ không thể bỏ. Quốc ngữ lại được trau chuốt làm nền tảng cho văn chương nước nhà như Hoa tiên, Kim Vân Kiều là điều không thể phủ nhận, không ai phủ nhận. Vậy có thể lấy quốc ngữ làm văn chương được không? Câu trả lời tưởng đã có từ thời Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm rồi, ai ngờ bây giờ lại được đặt ra lại. Quan điểm của Cao Bá Quát hình như còn có chỗ chưa dứt khoát. Một mặt ông thận trọng suy nghĩ: “Than ôi, lấy quốc ngữ làm văn chương thì ta chưa dám, nhưng lấy văn chương mà coi quốc ngữ thì ta có phần tán thành.” Ông chưa dám lấy quốc ngữ làm văn chương, Nhưng mặt khác ông đã thấy quá trình văn Nôm phát triển: “Nước ta từ sau Hàn Thuyên, các tác gia mọc lên như rừng: Ôn Như Hầu làm thơ cổ khuôn mẫu ngang với Thiếu Lăng; Bằng quận công(2) đặt điệu cung từ, giong ruỗi không nhường Hán Nguỵ; đến như văn hay của truyện khúc nay ta đã được thấy Hoa Tiên và Kim Vân Kiều. Như vậy chỉ coi quốc ngữ là quốc ngữ thì hai cuốn truyện này không có cũng được, nhưng nếu phải cần tiến lên, tìm cách làm cho rõ thế nào là văn chương của ta, thì các bạn cùng yêu văn với ta nghĩ sao đây?” thì có vẻ như ông còn lưỡng lự. Thế nghĩa là lấy văn chương mà đánh giá quốc ngữ thì ông có phần tán thành, bởi vì đã có Hoa Tiên và Kim Vân Kiều làm chứng. Nhưng lấy quốc ngữ làm văn chương thì ông vẫn hoài nghi. Vì sao lại chưa dám? Rõ ràng không phải quốc ngữ chưa đủ phẩm chất để làm văn chương. Lí do có lẽ là vì lúc này quốc ngữ chưa có những áng văn xuôi có thể sánh ngang với Hán văn. Xét về mặt này thì sự ngập ngừng của họ Cao có thể hiểu được, bởi vì phải đến đầu thế kỉ XX chúng ta mới có văn xuôi quốc ngữ dưới dạng quốc văn mới. Khi quốc ngữ chỉ mới có văn vần mà chưa có văn xuôi thì nó chưa thể làm được văn chương hoàn bị. Dù sao một sự ngập ngừng đã làm cho ở thế kỉ của Cao Bá Quát, một khẩu hiệu dùng quốc ngữ để sáng tác văn chương là chưa thể đề xuất ra được, phải đợi đến đầu thế kỉ XX. Cũng có thể vì thời nhà Nguyễn quá đề cao chữ Hán, độc tôn nho học. Phải chăng văn chương đây còn có nghĩa là văn bản dùng trong hệ thống nhà nước, trong thi cử, cho nên theo tác giả vẫn nên dùng chữ Hán tốt hơn. Thực tế thơ văn của ông cũng cho thấy, tuy sáng tác chữ Nôm rất hay, nhưng hầu hết sáng tác của Cao Bá Quát, bao gồm hàng nghìn bài đều làm bằng chữ Hán. Ông vẫn coi trọng chữ Hán hơn chữ Nôm. Quan niệm ấy đã hạn chế sáng tác chữ Nôm của ông, một nhà thơ tài hoa, không thể không lấy làm tiếc cho văn học nước nhà.
Nhìn chung quan niệm văn chương của Cao Bá Quát về cơ bản là quan niệm văn học nho gia. Trong bài Đọc Kinh Thi ông tâm niệm: “Làm thơ Tang hổ để nghĩ đến người thiện, Hát chương Thấp linh vì nhớ đến người hiền. Ngìn năm sau, ai đã nối được âm điệu, Lòng những muốn trông làm khuôn mẫu”...
Nhưng ông là người yêu tự do: “Chiếc nón nghênh ngang lẫn với đời, “Giang ngoại xuân” dạo hát thảnh thơi - Chịu sao nổi mái nhà thấp khúm núm cúi ngửa theo ý người”... Vì thế về nội dung văn học, Cao Bá Quát đã có quan niệm cởi mở. Ông phản đối những kẻ “khinh bạc”, xem Hoa Tiên là “lối văn dâm đãng, khúc hát lẳng lơ”, “thực đáng buồn cười”. Ông coi trọng chữ tình trong văn chương: “Xưa nay nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ